Tôi bước ra khỏi xe rồi vội vã đi như chạy theo con đường dọc bờ sông tìm về căn nhà cũ. Cảnh vật chung quanh đã đổi khác
nhưng bước chân tôi hình như không lạc lối, vẫn tìm ra được nơi muốn quay về. Vẫn
hàng tre chạy dọc theo bờ sông và con đường vẫn ngoằn ngoèo như trước. Chỉ có
nước sông hình như đang còn “cau mặt với
tang thương!” Tôi nhìn dòng sông (hay dòng sông nhìn tôi?) ngậm ngùi giấu nỗi
buồn thế cuộc!
Sông Vĩnh Phước đây rồi! Con sông đã cho tôi những
ngày tháng thanh bình ấu thơ. Sông đã gắn bó, sẻ chia cùng tôi bao vui buồn của
một thời mới lớn, ôm ấp những mộng ước đầu đời…
Sông có tục danh là Rào Vịnh, chảy qua nhiều
vùng núi non, có lắm khe suối nhỏ đổ vào, và quanh co nhiều hướng. Sông đi qua
làng Tân Vĩnh, làng Lai Phước, làng Hà Xá (bên kia sông), phía dưới là làng Phú
Áng, và bên này sông là làng Vĩnh Phước. Khi đến ngã ba Vĩnh Phước thì sông nhận
nước từ sông Ái Tử chảy vào. Đến ngã ba Phú Áng, sông nhập vào sông Thạch Hãn,
và cứ thế cứ tiếp tục trôi…
Không biết sông đã có mặt tự bao giờ nhưng
khi tôi sinh ra thì đã có sông ở đó. Tôi vẫn thường nghe Mạ hát ru “Nước trong khe chảy về nguồn Vịnh, Trời côi
đã định nước chảy vòng quanh.” Đúng là nước chảy vòng quanh cho nên cuộc đời
của bà con quanh sông cứ loanh quanh khổ cực không thoát ra được. Đã qua bao cuộc
đổi thay, người dân quê tôi vẫn chưa hưởng được chút thanh bình, hưởng được chút
không khí tự do.
Xưa nhà tôi ở cạnh bờ sông nên việc lấy nước
và giặt giũ rất tiện lơi. Hầu hết các bến trong làng đều được xây bằng ximăng,
cốt sắt do Chính Phủ tài trợ. Có chỗ giặt, chỗ tắm khang trang giúp bà con khỏi
bị té trượt. Các bến ít khi vắng người, nhất là những ngày nắng nóng thì rất đông
đúc. Người tắm rửa, kẻ giặt áo quần, các cậu trai trẻ thi bơi lội tung tăng. Nước
sông trong xanh được hàng tre phủ bóng tạo nên một khung cảnh thơ mộng có một
không hai. Bạn bè tôi ở các nơi xa thường thích về đây tắm mát. Sau những lần học
bài ôn thi, những lần đi học xa về, chúng tôi thường ngồi bên bờ sông nhìn dòng
nước chảy như gởi những lo âu muộn phiền theo dòng nước trôi đi để
lòng cảm thấy thảnh thơi vui vẻ. Dòng sông với tôi là mái ấm, là gia đình, anh
em, bạn bè… Mỗi lần nghĩ đến là những khuôn mặt thân yêu hiện ra, gần gũi quý hóa.
Trong số bạn bè anh em còn nhớ đến sông phải kể đến Hoàng Trinh, Hoàng Lịch, Phan Bá Hiển, Hoàng
Triều, Lê Bá Bơn, Tom Malia…Bây giờ sau mấy chục năm hồi tưởng lại giòng sông cũ,
có người còn nói sông Vĩnh Phước quê tôi đâu có thua gì sông Danube! (Trạng chút
chơi!)
Nhớ có dạo, khoảng năm 1969/1970, trên sông Vĩnh
Phước xuất hiện ngày hai chuyến đò máy chạy chở khách từ các làng ven sông đi và
về chợ Quảng Trị. Sáng sớm đã nghe tiếng máy đò và tiếng bà con gọi nhau ơi ới.
Các chị, các o gồng gánh chở hàng lên chợ bán hoặc mấy cô cậu học trò lên tỉnh
học. Vui lắm, hoạt cảnh buổi sáng tại làng quê từ đây đã thay đổi. Mang một chút
hơi hướm thị thành. Có nhà còn có máy bơm lấy nước từ sông để tưới cho
nương vườn mùa hạn hán. Hồi ấy, ban đêm các chú bên kia thường hay về đặt mìn
trên Quốc Lộ I gây chết chóc cho bà con khi đi xe nên việc sử dụng đò máy làm
phương tiện đi lại cho bà con được nhiều người ưa thích. Vừa lạ, vừa an toàn, lại
còn có cơ hội được ngắm nhìn cảnh sông nước mênh mông.
Cảnh thanh bình tương đối ấy kéo dài không được
bao lâu thì biến cố Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 xảy ra. Bà con lại bồng bế chạy về phương
Nam để tránh những đợt pháo kích khốc liệt của Việt cộng. Mẹ và em gái tôi kẹt
lại cùng dòng sông và một số người dân không chạy kịp. Thời gian này tôi đang học
ở Huế, nên chẳng có thể làm gì được; lòng nặng nỗi đau chia cắt và tự hỏi không
biết khi nào có thể trở về gặp lại…
Rồi tháng tư 1975. Hết đường chạy, tôi đành
trở về quê. Gặp lại Mẹ và em. Gặp lại dòng sông cũ. Vết thương từ năm 1972 của
dòng sông chưa kịp lành thì những kế hoạch sửa sang đắp đập/ngăn sông “thay trời
làm mưa” của chế độ mới làm cho sông lở lói, cạn kiệt sinh lực, chết không chết,
sống không sống. Đoạn sông từ cầu Lai Phước cho đến gần xuống giữa làng nhuốm một
màu thê lương ảm đạm: nước cáu đục và nồng nặc mùi cứt vịt và các thứ rác rưởi
khác! Đoạn từ giữa làng trở xuống thì nước có đỡ hơn nhưng không ai tắm rửa gì
được. Người ta vẫn cảm nhận được mùi hôi khó chịu từ dưới nước dâng lên, cảm nhận
được sự thiếu vắng sinh lực của một dòng sông khắc khoải.
Dân làng bỏ đi gần hết. Kẻ vô Nam tìm kế sinh
nhai khác, người bị đưa lên vùng kinh tế mới tận Khe Sanh, Ba Lòng … Ai cũng bỏ đi,
chỉ có dòng sông ở lại. Tôi ở lại quê năm năm trời nhưng cũng chỉ để nhìn dòng
nước trôi như nhìn số phận bà con làng nước và của mình đang bập bềnh không phương
hướng…
Rồi tôi cũng bỏ đi. Bao nhiêu năm rồi mà mỗi
lần nghĩ về quê cũ, dòng sông xưa vẫn vậy, vẫn chảy mãi trong tôi những hoài niệm
vừa êm đềm vừa đau xót. Ai kia đã làm nước sông cạn nhưng con sông-Vĩnh-Phước-trong-lòng-tôi
lúc nào cũng dạt dào sóng vỗ.
Hùng Vĩnh Phước