(Nhớ đâu viết đó giải sầu)
Đông Hà
Trong Trí Nhớ (Sáu)
(1975 – 1980)
BÀI CHO HỌC TRÒ
Có nhiều khi nghĩ về một ngôi trường
Trên ngọn đồi quanh năm lộng gió
Các em hồn nhiên như loài chim nhỏ
Giữa lòng đời thánh thót tiếng yêu thương
Có nhiều khi gặp phải những gian nan
Ta lại nhớ học trò và lớp học
Nhớ những đôi mắt ngâp tràn mơ ước
Mơ về ngày mai biển rộng sông dài
Cuộc đời nhiều khi như một cơn say
Bao nhiêu kẻ quay cuồng trong mộng ảo
Ai đã hành cho trò ngơ thầy ngáo
Để một thời cây cỏ cũng tan hoang?
Khi không còn gì giữa biển đời mênh mông
Sóng và gió đã dập vùi bao mơ ước
Thì nghĩa tình này bây giờ ta có được
Là niềm ủi an thắp sáng cuộc hành trình
Có những điều chỉ nói trong lặng thinh
Bài học cũ vẫn còn trên trang sách
Em vẫn vậy- mấy chục năm xa cách
Vẫn thân thương/gần gũi, vẫn quê nhà.
Hùng Vĩnh Phước
*
Bảy Hai chạy, Bảy Lăm về. Năm năm ở Đông Hà. Thời
gian đủ để không quên những gì đã xảy ra, đặc biệt là không thể quên những tình
cảm trong sáng mà những thế hệ học trò ở đó đã dành cho mình. Chính những giờ
phút cùng các em trong lớp học là những giờ phút bình yên nhất, quên hết những
lo âu, sợ sệt, quên hết những phiền toái chung quanh…
Bây giờ sau mấy chục năm ngồi nhớ lại, hình ảnh những
đứa học trò cũ vẫn còn rõ nét trong lòng, vẫn mãi bồi hồi, thương cảm. Vẫn hiển
hiện trước mắt bước chân của các em trên đường đến trường và về nhà, những buổi
lao động dưới cái nắng và gió Lào khắc nghiệt, những đôi mắt sáng nhìn lên khi
nghe giảng bài…Tất cả khó phai mờ cùng năm tháng!
Tên của từng em trong từng lớp, có thể giờ đây,
không nhớ hết cùng một lúc, nhưng nếu được nhắc lại thì hình ảnh từng em sẽ hiện
ra. Rõ ràng. Như mới hôm qua.
*
Phan Hữu Thịnh là người học trò tìm ra tôi trước
nhất. Thịnh trước đây học lớp 12D, tôi làm phó chủ nhiệm và thầy Hiếu (giáo
viên chính trị) làm chủ nhiệm. Sau đó em đi học đại học ngành địa chất ở Huế, rồi
ra làm việc ở tình Quảng Trị. Chúng tôi đôi lần có gặp nhau khi tôi từ Cà Mau về
thăm Đông Hà. Ai ngờ lúc ở trại tỵ nạn Bidong, Malaysia, tôi nhận được thư Thịnh
từ trại tỵ nạn ở Hong Kong gởi qua kèm theo 20 đôla Mỹ. Tôi không nhớ vì sao
chúng tôi lại liên lạc được với nhau, nhưng mừng lắm; mừng không phải chỉ vì có
được tiền “chi viện” khi túng thiếu mà còn cảm được tấm lòng và nghĩa tình của
người học trò cũ.
Thư qua thư lại, rồi sau đó chúng tôi mất liên lạc
vì mỗi người phải bận rộn lo nhiều thứ cho gia đình, con cái, và thủ tục đi định
cư… Tưởng sẽ không gặp lại nhau, bỗng một buổi trưa sau mấy chục năm (hình như
năm 2012?), tôi nhận được điện thoại của Thịnh gọi từ Victoria, Canada. Và hè
năm đó gia đình tôi lái xe từ San Jose qua Victoria thăm gia đình Thịnh. Rồi cứ
vài năm chúng tôi có dịp là đi qua đó, vừa là dịp đi nghỉ ngơi (vacation) vừa
có dịp thầy trò gặp lại nhau ôn chuyện cũ...
Sau này tôi may mắn gặp lại nhiều học trò cũ qua
chuyến về thăm nhà năm 2011 và qua Facebook. Một số các em còn giữ liên lạc được
cho đến bây giờ: Nguyễn Duy Tâm, Lý Thanh, Nguyễn Thị Thu Hà, Phan Quỳnh Thủy,
Trần Thị Việt Anh, Trần Thị Ngọc Anh, Trần Thị Mai Anh, Nguyễn Thị Kim Hoá, Lê
Thi Bê, Trần Thị Túy Hoa, Nguyễn Thị Bạch Hoa, Mai Thị Đầm, Mai Chiếm Ngữ,
Hoàng Kim Sơn,Trần Thị Túy Hồng, Trịnh Thị Hà Bắc, Trần Khánh Phôi, Cáp Xuân
Thu, Phan Hoa, Nga Hoàng, Hương Hoàng, Trần Hoàng… và nhiều người khác mà giờ
này chưa nhớ kịp.